Đức mẹ Lộ Đức là một trong mẫu tượng được sử dụng rất phổ biến nhất trong các không gian nhà thờ, phòng thờ hay bàn thờ tự Công Giáo. Là một hình ảnh rất quen thuộc nhưng về nguồn gốc của tên gọi này tới từ đâu, ý nghĩa của bức tượng này là như nào thì còn có thể có người chưa nắm được. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về những điều đó trong nội dung của bài viết này nhé!
=> Tham khảo ngay: Tượng Công Giáo
Nguồn gốc của cái tên Đức Mẹ Lộ Đức
Đức Mẹ Lộ Đức là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo dành cho Đức Mẹ Maria. Tước hiệu này xuất phát từ việc Đức Mẹ được cho là đã hiện ra với những cá nhân riêng biệt ở vùng Lourdes (Pháp), được phiên qua âm Việt là Lộ Đức.
Tổng cộng đã có 18 cuộc “hiện ra” tại hang đá Massabielle từ tháng 2 cho tới tháng 7 năm 1858. Chín lần đầu là vào các ngày 11, 14, 18, 19, 20, 21, 23, 24, 25 tháng 2.
Lần thứ nhất vào buổi trưa ngày 11 tháng 2 năm 1858. Cùng đi với Bernadette có em gái là Marie-Antoinette và bạn gái là Jeanne Abadie. Khi đến trước hang đá Massabielle ở chỗ con kênh giao thoa với sông Gave, Marie và Jeanne lội qua trước để nhặt củi trong hang. Bernadette đang cúi xuống cởi tất để chuẩn bị lội theo.
Bernadette thuật lại như sau: “Thình lình tôi nghe thấy một cái gì đó như tiếng gió vi vu. Tôi ngoảnh đầu lại hướng về phía đồng cỏ gần bờ sông, song cây cối vẫn lặng lẽ, rõ ràng là tiếng động không xuất phát từ chúng. Đoạn tôi nhìn lên và thấy ngay trong động đá một người nữ mặc chiếc áo trắng dễ thương với chiếc dây thắt óng ánh. Trên chân của bà mỗi bên đều có một bông hồng màu vàng nhạt, cùng màu với những hột ở tràng chuỗi mân côi của bà”.
Bernadette giơ tay dụi mắt, rồi nhắm và mở ra, nhưng Bà vẫn ở đó, tiếp tục mỉm cười và ra dấu cho biết cô không lầm. Bernadette thò tay vào túi lấy tràng hạt và quỳ xuống. Khi Bernadette lần hạt xong Bà ra hiệu cho cô lại gần nhưng Bernadette không dám. Khi đó Bà lui vào trong và biến mất cùng với đám mây sáng.
Bernadette muốn giữ kín mọi sự, nhưng trên đường về nhà cô em gái đã gặng hỏi khiến cho cô kể lại chuyện xảy ra với điều kiện là không được nói với ai. Nhưng Marie Antoinette mách lại cho mẹ biết. Bà Soubirous cho là chuyện bịa đặt nên đánh cho hai con gái một trận.
Bernadette chứng kiến sự xuất hiện của Đức Mẹ,tranh kính màu, Bonneval.
Ba ngày sau đó Bernadette quay trở lại hang đá cùng với em gái và cô bạn. Bernadette đem theo một chai nước thánh như 1 sự kiểm chứng. “Nếu bà ấy đến từ Thiên Chúa, bà ấy sẽ ở lại, còn nếu bà ấy là quỷ dữ, bà ấy sẽ phải đi”. Lát sau Bernadette kêu lên: “Bà ở đó! Bà ở đó!”. Cô đứng dậy vội vã rảy nước thánh về phía bụi hồng và nói: “Nếu Bà đến nhân danh Thiên Chúa, thì xin hãy lại gần”.
Ngày 18 tháng 2, lần đầu tiên Bà nói chuyện với Bernadette và xin cô hãy trở lại hằng ngày trong vòng 15 ngày kế tiếp. Đồng thời cũng yêu cầu Bernadette nói với các vị linh mục hãy xây cất lên một thánh đường ở đó. Bà còn nói với cô: “Ta không hứa cho con được hạnh phúc ở đời này nhưng đời sau”.
Ngày 24 tháng 2, Bà yêu cầu Bernadette hãy cầu nguyện và sám hối thay cho các tội nhân. Ngày hôm sau bà bảo cô hãy uống nước ở rạch nước. Điều này khiến cho Bernadette bối rối vì chỉ có con sông Gave là dòng nước duy nhất ở đó. Nhưng bà ra dấu không phải sông mà là một tia nước nhỏ cạnh chỗ cô đang đứng: “Tôi chỉ thấy có một vài giọt nước, còn toàn là bùn. Tôi chụm tay lại để hớt lấy một chút nhưng không được, tôi liền cào đất lên. Tôi cố tìm lấy một ít giọt nước, nhưng mãi vào lần thứ bốn tôi mới có đủ lượng nước để uống”.
Những người chứng kiến đã rất thất vọng khi thấy Bernadette bới đất nhưng rồi 1 dòng nước sạch từ đó chảy ra và nó đã nhanh chóng trở thành tâm điểm của những cuộc hành hương. Thông tin loan truyền từ vùng này qua vùng khác và người ta mang đến đây đủ thứ bệnh. Đã có nhiều bệnh nhân được ghi nhận là được chữa khỏi một cách thần kỳ. Bảy trong số trường hợp đầu tiên được xác nhận là thiếu một cách giải thích thấu đáo về mặt y khoa bởi giáo sư Verges vào năm 1860. Người đầu tiên được chứng nhận như một “phép lạ” là một phụ nữ có cánh tay bị biến dạng bởi một vụ tai nạn. Một số trường hợp chỉ khỏi bệnh trong thời gian ngắn rồi tái phát. Thậm chí có cả những vụ lừa đảo.
Những điều này đã khiến Giáo hội và chính quyền hết sức quan tâm. Từ tháng 4 tới tháng 10 năm 1858, chính quyền cấm dân chúng đến hang đá, cấm bất cứ người nào lấy nước từ mạch Massabielle. Một hàng rào bằng ván gỗ sẽ được dựng vững chãi trước cửa hang để ngăn cản mọi người lui tới hang. Những người vi phạm sẽ phải chịu hình phạt theo luật định. Muốn đến hang đá phải có giấy phép của hoàng đế Napoléon III.
Trong các cuộc hiện ra, Bernadette Soubirous đã nhiều lần hỏi về tên của bà, song bà chỉ mỉm cười. Sau cùng ngày 25 tháng 3 với cánh tay giang ra và đôi mắt ngước lên trời, bà phán rằng bà là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội. Bernadette Soubirous không hiểu kiểu nói “vô nhiễm nguyên tội” là gì. Vì thế cô đến gặp Linh mục và người này hiểu đó là Đức Mẹ Maria.
Ngày 7 tháng 4, những người có mặt trông thấy sự say mê của Bernadette như 1 sự xuất thần. Chính ngày đó bác sĩ Dozous đã quan sát thấy trong vòng 15 phút “phép lạ cây nến”. Ngọn lửa của cây nến đã không gây ra vết cháy nào trên da thịt Bernadette trong lúc cô xuất thần và tham dự vào sự vô cảm. Lần cuối cùng vào ngày 16 tháng 7 năm 1858. Vì hang đá đã bị rào bởi lệnh của chính quyền, Bernadette cùng với dì Lucile và vài bạn gái đi đến bờ bên phải của sông Gave trong cánh đồng Ribère đối diện với hang đá. Tất cả quỳ gối và cầu nguyện. Sau một lúc Bernadette kêu lên: “Vâng, vâng, Mẹ đó! Mẹ mỉm cười với chúng ta và chào chúng ta bên trên hàng rào cản. Chưa bao giờ tôi thấy Mẹ đẹp như vậy”. Đó lần cuối cùng được ghi nhận về việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette.
Ý nghĩa tượng Đức Mẹ Lộ Đức
Được biết, Đức Mẹ đã hiện ra với chị Bernadette Soubirous 18 lần tất cả tại hang đá Massabielle bên Lộ Đức. Nhưng 18 lần Đức Mẹ hiện ra tại hang đá Massabielle có ý nghĩa gì?
Để có thể hiểu ý nghĩa của biến cố này, cần quy chiếu các lời và các dấu chỉ của chính Phúc Âm. Thật thế, một cuộc hiện ra không phải là một mạc khải mới, nhưng là một nhắc nhớ Phúc Âm, nhấn mạnh một điểm nào đó của Tin Mừng, một tiếng kêu giúp hiểu nó, kể cả đối với những kẻ điếc trong linh hồn. Như thế Lộ Đức trình bầy các đường nét nền tảng của Tin Mừng: phép rửa sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả, sự hoán cải, lời cầu nguyện và hạnh phúc của những người nghèo khó. Như vậy có thể tóm tắt sứ điệp Lộ Đức bằng bốn ý niệm sau đây: khó nghèo, cầu nguyện, sám hối và ơn thánh.
Trước hết là sự khó nghèo. Đây là điều không được nói một cách rõ ràng, nhưng rất có ý nghĩa. Bernadette là một cô bé gái nghèo, không học thức, con của một gia đình bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Sự bần cùng của cô bé và gia đình được cảnh sát Lộ Đức biết rõ. Thế mà cô lại là người được Đức Mẹ chọn làm sứ giả: ”những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1 Cr 1,27). Sau này Đức Giám Mục Lộ Đức đã nói lên điều trên, khi diễn tả tâm tình của dân chúng. Đám đông đân chúng hứng khởi đã không chịu được cảnh sống bần cùng của gia đình Soubirous, và các người hành hương dâng cúng tiền bạc và các tặng phẩm khác nhau, nhưng Bernadette nhất định từ chối, không nhận, mặc dù chị vẫn có cảm tình với những người nghèo khổ. Và chính những người nghèo khổ lại tỏ ra quảng đại nhất trong việc dâng cúng các trợ giúp. Cũng chính họ là những người đã hiệp sức sửa lại các con đường ngoằn nghèo dẫn đến Hang Đá Đức Mẹ. Tất cả những điều này đã được các nhân chứng và chính Đức Giám Mục giáo phận ghi nhận trong thư mục vụ đề ngày 18 tháng Giêng năm 1962.
Điểm thứ hai trong sứ điệp Lộ Đức là cầu nguyện. Đây là điều chính Đức Mẹ đã xin chị Bernadette cũng như các tín hữu ngay từ đầu, hay đúng hơn trước khi có sứ điệp. Và cầu nguyện là đặc thái đã khiến cho Lộ Đức trở thành thủ đô của lời cầu nguyện có chiều kích giáo hội ngày càng rộng rãi hơn. Điều Đức Mẹ xin trong lần hiện ra ngày mùng 2 tháng 3 năm 1858 đó là các linh mục hãy xây một nhà nguyện kính Đức Mẹ và đi kiệu tới đây. Nó ám chỉ Giáo Hội trên đường lữ hành và bí tích Thánh Thể.
Ngày nay mỗi khi hành hương tới Lộ Đức, tín hữu có thể tham dự các Thánh Lễ riêng theo đoàn ngay tại Hang Đá nơi Đức Mẹ hiện ra, hay trong vương cung thánh đường bên dưới, cũng như các thánh lễ quốc tế chung cho tất cả mọi người trong vương cung thánh đường dưới lòng đất. Họ cũng có thể chầu Mình Thánh Chúa trong vương cung thánh đường bên trên. Vào ban chiều có buổi rước kiệu Mình Thánh Chúa, chầu Phép lành và ban phép lành cho các bệnh nhân. Vào ban tối có buổi rước nến lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ. Tín hữu cũng có thể lãnh bí tích Hòa Giải và tắm nước suối Đức Mẹ. Đã có nhiều bệnh nhân được khỏi bệnh khi tham dự cuộc rước kiệu Thánh Thể, lúc vị chủ sự cầm Mặt Nhật Mình Thánh Chúa ban phép lành trên họ, hay sau khi tắm nước suối Đức Mẹ. Ngoài các giờ tham dự thánh lễ, kiệu Mình Thánh Chúa và rước nến lần hạt, trước Hang Đá Đức Mẹ lúc nào cũng có người lần hạt cầu nguyện, có khi suốt đêm, đặc biệt trong mùa hè và những ngày trời đẹp.
Năm 2004 khi viếng thăm Lộ Đức Đức Gioan Phaolô II đã nói: ”Tại đây Đức Trinh Nữ mời gọi chị Bernadette lần hạt Mân Côi, trong khi chính Mẹ cũng lần hạt. Như thế Hang Đá này đã trở thành địa điểm của một trường cầu nguyện gây kinh ngạc, nơi Mẹ Maria dậy cho tất cả mọi người chiêm ngưỡng gương mặt của Chúa Kitô với một tình yêu nồng cháy. Chính vì thế Lộ Đức là nơi các tín hữu của Pháp và của biết bao nhiêu quốc gia Âu châu khác cũng như của thế giới quỳ gối cầu nguyện”.
Điểm thứ ba trong sứ điệp Lộ Đức là việc sám hối, hoán cải trở về với Thiên Chúa. Hoán cải ”teshuva” trong tiếng Do thái có nghĩa là quay ngược lại 180 độ: đang trên con đường xa Chúa, quay trở về với Người. Hoán cải ”metanoia” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là nghĩ cao hơn, nghĩ khác đi, thay đổi não trạng, thay đổi tâm thức, thay đổi cung cách suy tư hành xử, bỏ đàng tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Trong cuộc sống đức tin ai cũng ít nhiều cần phải hoán cải, và tiến trình hoán cải ấy chỉ kết thúc với cái chết của mình. Tại Lộ Đức Đức Mẹ đặc biệt xin Bernadette hãm mình hôn đất làm viêc đền tội và cầu nguyên cho những người tội lỗi được ơn trở về với Chúa và Giáo Hội. Đền bù tội lỗi cũng sẽ là một phần của sứ điệp khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima với trẻ chăn chiên Lucia, Phanxicô và Giacinta từ ngày 13 tháng 5 cho tới ngày 13 tháng 10 năm 1917.
Điểm thứ bốn trong sứ điệp Lộ Đức liên quan tới căn cước của Đức Mẹ. Đức Trinh Nữ tự giới thiệu và tự đồng hóa với ơn nhưng không Thiên Chúa ban, bởi vì đối với Mẹ mọi sự thiện hảo đều đến từ Thiên Chúa, tất cả là ơn thánh, tất cả phát xuất từ ơn thánh như chính Mẹ đã thừa nhận trong thánh thi Magnificat, mà Mẹ đã hát lên để chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa trong biến cố đến thăm bà chị họ Elidabét thân mẫu của thánh Gioan Tẩy Giả tại Ain-Karim. Tâm tình của Bernadette đối với bài thánh thi này thật rõ ràng. Ngày 22 tháng 5 năm 1866, trước khi bỏ Lộ Đức để gia nhập dòng các Nữ tu Bác ái Nevers, Bernadette đã sáng tác một lời nguyện bắt chước thánh thi Magnificat của Đức Mẹ cảm tạ Thiên Chúa vì ơn khó nghèo của nữ tỳ Chúa (Lc 1,48). Chị thân thưa với Mẹ Thiên Chúa như sau: ”Vâng, thưa Mẹ dịu hiền, Mẹ đã hạ mình xuống trái đất để hiện ra với một cô bé gái yếu đuối… Mẹ, Nữ Hoàng trên trời, Mẹ đã muốn sử dụng những gì khiêm tốn nhất theo trần gian” (Trích Nhật ký dành cho Nữ Hoàng trên trời, 1866).
Chính chị Bernadette là chứng tá sống động diễn tả ý nghĩa sứ điệp của Đức Mẹ. Bernadette đã là chứng nhân duy nhất của điều không thể tin được, và chứng tá của chị đã được cống hiến trong các điều kiện hầu như không thể tưởng tượng được. Là người mù chữ thuộc gia đình không có địa vị xã hội nào, có sức khỏe yếu kém, đã bắt đầu bị bệnh lao phổi, một căn bệnh mà chị phải chiến đấu trong suốt đời, cô bé Bernadette đã phải đương đấu với ông cảnh sát trưởng, tòa án, hiến binh và các ủy ban khác nhau của chính quyền dân sự. Tất cả đều dùng mọi cách để gây áp lực nhằm tạo ra các mâu thuẫn nơi chị, hay khiến cho Bernadette sợ phải nhượng bộ nhận là mình bầy đặt và nói dối. Nhưng đã không có gì có thể lay chuyển được cô bé. Các tài liệu lịch sử cho thấy các người khảo cung vô cùng khâm phục cô bé vô học thức này. Sự đơn sơ của Bernadette khiến người ta nghĩ tới thánh nữ Jeanne d’Arc, và nhớ tới các lời Chúa Giêsu trấn an các môn đệ: ”Các con đừng lo lắng phải nói làm sao hay nói gì, bởi vì trong giờ đó Thánh Thần sẽ dạy cho các con biết những điều phải nói” (Lc 12,11 tt; Mt 10,19 tt.).
Tiếp theo sau các kẻ đối nghịch của giới chức chính quyền dân sự lại tới phiên các thẩm phán của Giáo Hội và các tín hữu hành hương thuộc đủ mọi loại. Các thẩm phán của Giáo Hội muốn thuyết phục Bernadette là đã bị lừa, và đã trông thấy qủy dùng hoa hồng để che hai chân có móng chẻ đôi của nó vv… Còn các tín hữu hành hương thì qúa sốt mến, tới độ muốn đẩy chị rơi vào khuynh hướng sùng bái, coi chị là thánh và muốn chị rờ vào các vật họ đem tới. Nhưng Bernadette đã luôn luôn từ chối. Và đôi khi tín hữu còn tìm cách cắt lén một mảnh nhỏ áo của chị để giữ làm thánh tích. Tuy nhiên, sự ngay thẳng trong sáng của chị đã chiến thắng mọi tấn công ngăn cản, có khả năng lung lạc và làm sai đường cả những người mạnh mẽ nhất.
Chứng tá của chị Bernadette đã rất trong sáng, đặc biệt trong cuộc sống tu trì tại Nevers. Chị đã gia nhập dòng trong hy vọng ”ẩn mình”, và thử thách lớn nhất là các cuộc phỏng vấn mà chị phải miễn cưỡng dành cho các ân nhân, các nhà văn và đặc biệt là các Giám Mục được đặc quyền viếng thăm chị. Bernadette đã ưa thích phục vụ người nghèo: thật vậy trong các năm 1869-1873 chị đã tỏ ra là một y tá rất chuyên môn, có khả năng, chú ý tới các nhu cầu của các bệnh nhân, có uy tín tâm lý và rất được các bệnh nhân vâng lời và qúy mến. Nhưng chẳng bao lâu bệnh lao phổi ngăn cản không cho phép chị làm việc gì nữa. Và đối với chị đó đã luôn luôn là hy sinh lớn lao nhất. Có một lần, trong lúc làm việc ngoại thường, một nữ tu khác thiếu tế nhị đã nói chị là một người vô ích. Bernadette hiểu và nhẹ nhàng trả lới: ”Vâng thưa chị, nghề của em là đau ốm”.
Mua tượng Đức Mẹ Lộ Đức ở đâu uy tín, chất lượng?
Là một trong những đơn vị trực tiếp chúng tôi nhận thiết kế và chế tác theo yêu cầu của khách hàng như sau:
+ Về mẫu mã: Mẫu tại Grand Art đều là những mẫu chuẩn đẹp, sắc nét. Nhiều mẫu được các nghệ nhân Grand Art phát triển độc quyền. Đồng thời, Grand Art cũng nhận tạo mẫu mới theo yêu cầu thiết kế của quý khách hàng. Mẫu tạo sẽ được duyệt bởi chính khách hàng trước khi đưa vào đúc tượng.
+ Về chất liệu: Chúng tôi cam kết chỉ sử dụng các loại chất liệu chuẩn, tốt nhất trên thị trường hiện nay. Nói không với các loại bột thạch cao, composite kém chất lượng. Quý khách hàng lưu ý, có rất nhiều các đơn vị sản xuất hiện nay đúc thành phẩm bằng các loại chất liệu kém chất lượng nhằm giảm thiểu chi phí sản xuất, tập trung vào số lượng chứ không quan tâm chất lượng. Mặc dù thạch cao và composite là những loại vật liệu bền nhưng nếu những loại chất liệu này không đảm bảo chất lượng, sản phẩm sẽ nhanh chóng bị xuống cấp chỉ sau một thời gian ngắn sử dụng.
+ Về kích thước: Grand Art nhận chế tác mọi kích thước theo yêu cầu của quý khách hàng.
+ Về quy cách hoàn thiện: Quý khách có thể lựa chọn màu hoàn thiện sản phẩm phù hợp với sở thích của mình. Các màu phổ biến nhất là màu trắng mộc, màu đồng giả cổ hoặc mạ, thếp vàng trên bề mặt.
=> Xem ngay: Địa chỉ mua tượng Đức Mẹ Lộ Đức
=> Xem ngay: Báo giá tượng Đức Mẹ Lộ Đức
Những ưu điểm vượt trội của Grand Art so với các đơn vị bán tượng Đức Mẹ Lộ Đức khác
– Đơn vị sản xuất trực tiếp trên toàn bộ quy trình, không qua bất kỳ đơn vị trong gian nào: Grand Art có các phân xưởng sản xuất đảm nhiệm các quy trình chế tác riêng từ đội ngũ kỹ thuật tới đội chuyên tạo khuôn mẫu, kiểm định chất lượng sản phẩm đầu vào và sau cùng là đội đúc, sửa nguội và hoàn thiện. Xây dựng một bộ máy hoạt động được vận hành trơn tru với từng công đoạn phải được kiểm định hoàn thiện, đạt chuẩn yêu cầu rồi mới chuyển sang các công đoạn tiếp theo.
– Đội ngũ thợ, nghệ nhân tay nghề cao, kinh nghiệm dày dặn trong các lĩnh vực thiết kế và chế tác.
– Chúng tôi chuyên trực tiếp chế tác và sản xuất: các dòng tượng Đức Mẹ chuẩn đẹp với nhiều kiểu mẫu độc quyền, ngoài ra, chúng tôi còn phát triển và sản xuất các dòng tượng Phật, tượng danh nhân, thiên chúa giáo, tượng công giáo hay các dòng tượng Phục Hưng, mỹ thuật ứng dụng, đồ thờ công giáo, đồ thờ phật giáo, các dòng tượng phong thuỷ bằng thạch cao, composite. Những sản phẩm tại Grand Art được đánh giá rất cao từ hội đồng nghệ thuật và khách hàng.
– Giá thành hợp lý, giá tại xưởng: Trực tiếp sản xuất nên mức giá của Grand Art có thể nói là tốt nhất thị trường đi cùng với chất lượng sản phẩmịa – Quy trình làm việc chuyên nghiệp: Toàn bộ đội ngũ của Grand Art đều được đào tạo làm việc chuyên nghiệp với tiêu chí đặt nhu cầu và trải nghiệm của khách hàng lên hàng đầu.